Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở nữ giới nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Trong số các ung thư ở nữ, ung thư vú chiếm tới 35%. Bệnh được phát hiện ở giai đoạn càng sớm thì tỷ lệ chữa khỏi bệnh càng cao. Tỷ lệ sống thêm sau 5 năm giảm dần khi bệnh được phát hiện và điều trị muộn hơn. Tỷ lệ này là 100% nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn tiền lâm sàng (giai đoạn 0, giai đoạn chưa xâm lấn), giảm xuống 95% nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn I ( đường kính khối u dưới 2cm, hạch bạch huyết vùng nách chưa bị ảnh hưởng, chưa có dấu hiệu di căn), giảm xuống 80% ở giai đoạn II ( đường kính khối u trên 5cm, hạch nách bị ảnh hưởng nhưng chưa di căn ra ngoài phạm vi vú và hạch nách) và đến giai đoạn IV (khối u to và di căn) chỉ còn 25%.
Độ tuổi nên bắt đầu sàng lọc ung thư vú:
- Phụ nữ từ 30 tuổi trở lên bắt đầu định kỳ đến khám tại cơ sở y tế chuyên khoa 1 năm một lần.
- Phụ nữ từ 40 tuổi trở nên khám sàng lọc ung thư vú hàng năm bằng chụp xquang tuyến vú.
- Với phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư vú nên được tầm soát thêm bằng chụp MRI tuyến vú hàng năm bắt đầu từ tuổi 30. Trong đó gồm những người có đột biến gen BRCA, bố, mẹ, anh chị em ruột hoặc con của người mang đột biến BRCA, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú 20% đến 25%, có tiền sử xạ trị vào vùng ngực từ 10 đến 30 tuổi, hội chứng Li-Fraumeni, hội chứng Cowden-Bannayan Riley-Ruvalcaba.
Để sàng lọc và phát hiện sớm ung thư vú có các cách như sau:
- Tự khám vú : Tự khám vú là phương pháp đơn giản, không tốn kém, nếu được thực hiện đúng có thể giúp người bệnh phát hiện sớm các khối u ở vú, được điều trị sớm và vì vậy tiên lượng tốt hơn. Phương pháp tự khám vú được khuyến cáo tiến hành hàng tháng sau khi sạch kinh 5 ngày đối với nữ giới từ 20 tuổi trở lên.
- Khám vú tại cơ cở y tế chuyên khoa : Phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, nên định kỳ đến khám vú tại các cơ sở y tế chuyên khoa từ 1-3 năm một lần. Đối với phụ nữ từ 40 tuổi trở lên, cần định kỳ đến khám mỗi năm một lần. Khi phát hiện được khối u vú, có hạch nghi ngờ, thầy thuốc sẽ cho tiến hành các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán xác định.
- Chụp X-quang tuyến vú: Phụ nữ từ 40 tuổi trở lên cần định kỳ đi chụp X-quang tuyến vú (đồng thời với khám vú tại cơ sở y tế). Chụp X-quang tuyến vú có thể phát hiện các tổn thương bất thường ở tuyến vú ngay cả khi chưa sờ thấy khối u. Đối với những phụ nữ có nguy cơ cao như đã từng xạ trị vùng ngực, gia đình có người bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, mang gen hoặc mắc một số hội chứng di truyền, hoặc bản thân bị u vú, ung thư vú đã điều trị thì cần đi khám sớm hơn và theo lịch cụ thể tùy từng trường hợp.
- Siêu âm vú: là phương pháp sử dụng sóng siêu âm để xây dựng và tái tạo hình ảnh về cấu trúc bên trong tuyến vú và cơ thể. Siêu âm có khả năng phát hiện các tổn thương vú trên mô vú dày, là đặc điểm mô vú của phụ nữ Việt Nam và châu Á nói chung. Đây được xem là một phương pháp an toàn, đơn giản, nhanh chóng cho kết quả chính xác. Chi phí thực hiện kỹ thuật lại khá thấp, phù hợp túi tiền đại đa số người dân. Đây là phương pháp an toàn không xâm lấn nên siêu âm thực hiện được ở bất cứ giai đoạn nào, không chịu ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh nguyệt, ngay cả khi bạn đang mang thai, hay khi cho con bú. Phương pháp này giúp phát hiện được các bất thường của vú như nang vú, apcess tuyến vú, u vú lành tính hay ác tính… đặc biệt là các bất thường nhỏ dưới 5mm mà khám lâm sàng không sờ thấy được. Cùng với chụp nhũ ảnh (X-quang tuyến vú), siêu âm giúp phát hiện sớm các tổn thương không sờ thấy tại vú, từ đó giúp sàng lọc phát hiện sớm ung thư tuyến vú.
Theo Ung thư phòng bệnh, phát hiện sớm và các nguyên tắc điều trị hiệu quả.
GS. TS Trần Văn Thuấn – Thứ Trưởng Bộ Y tế, Viện Trưởng viện Ung thư Quốc gia