Các phương pháp điều trị mới : Điều trị đích, miễn dịch cho bệnh nhân ung thư vú
2021-10-15 10:53:15
Chia sẻ:
Thời gian gần đây với sự ra đời các hoạt chất mới, nhiều nghiên cứu về điều trị đích và miễn dịch đã được tiến hành và mang lại kết quả khả quan, cung cấp thêm cho người bệnh ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng nhiều cơ hội trong điều trị. Tuy nhiên, chi phí của các thuốc này hiện nay còn khá cao, một số thuốc chưa được bảo hiểm chi trả hoặc chỉ được chi trả một phần.
Điều trị đích:
Điều trị đích hay liệu pháp nhắm trúng đích là một trong những phương pháp điều trị ung thư, sử dụng thuốc tác động vào gen hay protein chuyên biệt có ở tế bào ung thư liên quan đến sự phát triển khối u.
Vì tấn công vào các tế bào đặc hiệu nên các thuốc điều trị đích thường ít gây tổn thương trên tế bào bình thường hơn so với điều trị hoá chất và xạ trị.
Người bệnh cần được xác định tình trạng đột biến gen, sự có mặt hoặc bộc lộ quá mức các protein đích dựa trên các phương pháp sinh học phân tử và hoặc hoá mô miễn dịch trước khi lựa chọn phương pháp điều trị này.
Bao gồm các nhóm thuốc sau:
Kháng thể đơn dòng:
Kháng thể đơn dòng là các protein của hệ thống miễn dịchđược tạo ra trong phòng thí nghiệm để điều trị nhiều bệnh, bao gồm cả ung thư. Các kháng thể này có thể gắn vào một mục tiêu cụ thể trên tế bào ung thư hoặc các tế bào có thể giúp tế bào ung thư phát triển. Từ đó, các kháng thể có thể tiêu diệt các tế bào ung thư, ngăn chặn sự phát triển cũng như lan rộng của chúng.
Hiện nay, trong điều trị ung thư vú, kháng thế đơn dòng gồm có:
Kháng thể kháng Her-2: được chỉ định cho những bệnh nhân có xét nghiệm yếu tố phát triển biểu mô (Her2-neu) dương tính hay còn gọi ung thư vú thể Her2 dương tính, dùng được cho cả giai đoạn sớm và giai đoạn di căn.
Kháng thể chống sinh mạch: tác động lên thụ thể VEGF - yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu liên quan đến việc thúc đẩy phát triển khối u và di căn bằng cách kích thích sự sinh sinh mạch khối u. Kháng thể liên kết với VEGF và ngăn ngừa sự kích hoạt và thúc đẩy sinh mạch, được chỉ định cho ung thư vú giai đoạn muộn.
Kháng thể đơn dòng có thể được sử dụng một mình hoặc gắn thuốc, chất độc hoặc chất phóng xạ tác động trực tiếp đến các tế bào ung thư.
Các thuốc kháng thể đơn dòng trong điều trị ung thư vú hiện nay bao gồm:
Kháng thể Her2 gồm có trastuzumab (Herceptin) và pertuzumab (Perjeta).
Phức hợp kháng thể-thuốc (liênkết trastuzumab với một loại hóa trị) gồm có trastuzumab deruxtecan (Enhertu), ado-trastuzumab emtansine (Kadcyla).
Kháng thể chống sinh mạch: bevacizumab (Avastin)
Thuốc ức chế enzym tyrosin kinase:
Các thuốc này tác động dựa trên cơ chế ức chế enzym tyrosin kinase ngăn chặn tín hiệu tăng sinh tế bào của yếu tố Her2 từ bên trong tế bào ung thư, từ đó ngăn chặn sự phát triển của khối u trong cơ thể.
Được chỉ định cho các bệnh nhân ung thư vú thể Her2 dương tính đã kháng với kháng thể đơn dòng.
Các thuốc ức chế enzym tyrosin kinase hiện nay bao gồm: lapatinib, neratinib, tucatinib.
Thuốc kháng CDK 4/6:
Là các thuốc gắn kết và ức chế protein CDK - loại protein tham gia vào quá trình nhân lên và phát triển của tế bào ung thư.
Thuốc kháng CDK4/6 kết hợp với liệu pháp nội tiết được chỉ định cho các bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể nội tiết dương tính và Her2 âm tính.
Các thuốc kháng CDK4/6 hiện nay bao gồm: palbociclib (Ibrance), ribociclib (Kisqali), abemaciclib (Verzenio)
Thuốc kháng PIK3CA:
Gen PIK3CA là một trong những gen thường gặp đột biến nhất trong ung thư vú. Đột biến gen này có thể dẫn đến sự phát triển của tế bào ung thư và kháng lại với các điều trị khác.
Thuốc kháng PIK3CA được dùng cho các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn có thụ thể nội tiết dương tính và Her2 âm tính đã kháng với các thuốc điều trị nội tiết trước đó.
Thuốc kháng PIK3CA hiện nay được chấp thuận là alpelisib (Piqray).
Thuốc kháng mTOR:
mTOR là một protein trong tế bào, giúp tế bào phát triển và phân chia. Liệu pháp nội tiết có thể kém hiệu quả nếu mTOR trở nên hoạt động quá mức. Thuốc kháng mTOR được sử dụng cùng để liệu pháp nội tiết có thể hoạt động trở lại.
Thuốc được chỉ định trên các bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính và Her2 âm tính.
Thuốc kháng mTOR hiện nay là everolimus (Afinitor).
Thuốc ức chế PARP:
Các tế bào ung thư thường bị tổn thương DNA. PARP là một protein sửa chữa DNA tế bào và giúp chúng sống sót. Ức chế PARP có thể khiến tế bào ung thư chết đi.
Thuốc được chỉ định trên các bệnh nhân ung thư vú có đột biến gen BRCA1 hoặc BRCA2 và Her2 âm tính.
Các thuốc này ức chế PARP hiện nay bao gồm olaparib (Lynparza) và talazoparib (Talzenna).
Các thuốc khác đang được nghiên cứu
Điều trị miễn dịch:
Liệu pháp miễn dịchlà phương pháp điều trị sử dụng hệ thống miễn dịch của người bệnh để chống lại khối u. Đây là liệu pháp sinh học, giúp khôi phục và tăng cường khả năng phát hiện và tiêu diệt tế bào ung thư của cơ thể.
Có nhiều loại liệu pháp miễn dịch khác nhau. Đối với ung thư vú hiện nay, người ta sử dụng phương pháp ức chế PD-1và PD-L1.
PD-1 là một protein trên bề mặt tế bào miễn dịch Tgiúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch của cơ thể .
PD-L1 là một loại protein được tìm thấy trên một số loại tế bào ung thư.
Khi PD-1 gắn vào PD-L1, nó sẽ ngăn tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Các chất ức chế PD-1 và PD-L1 giữ cho các protein PD-1 và PD-L1 không gắn vào nhau. Điều này cho phép các tế bào T tiêu diệt các tế bào ung thư.
Mới đây, thuốc Atezolizumab (Tecentriq) - ức chế thụ thể PD-L1 và thuốc Pembrolizumab (Keytruda) - ức chế thụ thể PD-1 - đã được chấp thuận trong điều trị ung thư vú thể bộ ba âm tính ở các giai đoạn khác nhau.